Lão đạo sĩ
kén lầm rể phong lưu
Gái đoan trang trao thân chồng phóng đãng
Lại nói
về Bán Dạ Sinh, từ khi chia tay với Cô phong trưởng
lão, thì lẩm nhẩm một mình:
"Thật là
một bậc chân tu! Nhưng mà mình tuổi mới hai mươi,
chẳng khác nào một đóa hoa tươi vừa nở, lại
bảo cạo đầu đi tu chịu khổ, trên đời sao mà
có con người không tình cảm đến thế. Hôm nọ
mình đến, chẳng qua vì lão là một nhà sư nổi
tiếng, mình trong bụng cũng có một số kiến giải
bất đồng, lại muốn học hỏi cái lẽ mầu nhiệm
của đạo Thiền, nào ngờ lão xem mình rất thường.
Ăn nói đã khắc bạc không chịu nổi, lại còn
làm bài kệ chê người không đáng là một bậc
đại trượng phu thân dài vai rộng. Nếu làm
quan, mình dư sức cai tri thiên hạ, quản lý muôn
dân, chẳng lẽ kiếm một người vở mà không
nổi, để lão xài xể như vậy. Nay mình quyết
phải đấu với lão một trận, không gặp người
đẹp thì thôi, nếu gặp thì nhất định không bỏ
lỡ, phải phong lưu một phen, xem món nợ tình này
có ai dám đến đòi không. Chẳng phải kiêu căng,
cho dù là hạng phụ nữ nào đi nữa, nếu có
được một người chồng tài hoa như mình, nhất
định là ai mà dụ dỗ nổi. Mà như thế thì làm
sao có chuyện thất tiết được. Lẽ ra bài kệ
mình phải xé nát rồi đem trả lại cho lão, nhưng
nghĩ lại sau này muốn làm cho lão cứng họng thì
phải có cái gì làm bằng cớ, nên thôi. Mình
giũ đó để xem rồi đây chính lão có biết hối
lỗi hay không".
Nghĩ xong , Sinh
bèn cuộn tờ giấy mà cất vào tay áo. Về đén
nhà, Sinh bèn sai gia nhân đến các nơi mai mối tìm
cho được nguời đẹp nhất thiên hạ. Vốn con
nhà thế phiệt, lại có dung mạo Phan An, tài không
thua Tử Kiến, cho nên tự dắc rằng ai mà không
muốn có người rể như mình, có nữ nhân nào
không muốn có người chồng như mình.
Thế là hằng
ngày khối nhà bắn tiếng cầu thân. Con nhà nghèo
thì đến cho chàng xem mắt từ đầu đến chân,
con nhà giàu thì vì thể diện thì hẹn gặp nhau nơi
chùa miếu, hoặc ngoài đồng vắng, hai người gặp
nhau, người có tình, kẻ vô ý, vậy mà khi về
lắm cô tương tư thành bệnh.
Riêng chàng không
vừa ý ai cả. Có một bà mối nói với Sinh:
"Xem chừng,
chắc không có cô nào xứng với cậu. Riêng
có tiểu thư con gái của Thiết Phi đạo nhân, tên
Quý Hương, đẹp người đẹp nết may ra hợp với
cậu thôi. Có điều, phụ thân của cô tính tình
cổ quái, chắc không chịu để cậu xem mắt, mà
cậu thì lại đòi xem mặt trước cho được, khó
quá khó quá".
Bán Dạ Sinh nói:
"Tại sao gọi
ông ấy là Thiết Phi đạo nhân? Làm sao biết cô
ấy đẹp? Tại sao không chịu cho xem mắt?"
Bà mai nói:
"Ông lão ấy
là một vị túc nho, cả huyện đều biết tiếng.
Tính ông ấ rất lạ lùng kỳ quặ. Nhà dư ruộng
đất nên không thèm giao dịch vói ai, đời không
có lấy một nguời bạn, chỉ một mình đọc sách,
bất cứ ai đdến xin làm quen cũng không tiếp.
Một hôm có người khách lạ, vì mộ tiếng nên
không quản đường xá xa xôi lặn lội đến thăm.
Khach gõ cửa thật lâu, nhưng ông vẫn không ra
mở, cũng không thèm lên tiếng. Khách đành đi,
để lại một bài thọ trên cửa. Thơ có hai câu:
Đản tri cao sĩ
bồng vi hộ
Thùy liệu tiên
sinh thiết tác phi
Có nghĩa:
Những tưởng
cổng nhà cao sĩ làm bằng cỏ bồng
Ai ngờ chờ mải
chỉ thấy cánh cửa làm bằng sắt
Về sau, ông lão
có dịp đọc câu thơ, rất lấy làm thích và nói:
"Hai chữ
Thiết Phi, tức cử sắt, nghe nửa lạ nửa quen,
mà không sai"
Ông bèn chọn
làm biệt hiệu, tự gọi là Thiết Phi dạo nhân.
Ông không co1
con trai, chỉ sinh được một gái như hoa, như ngọc.
Bọn tôi làm mai, từng gặp hàng ngàn, hàng vạn
cô gái nhưng chưa từng thấy cô nào sánh nổi.
Lại được cha dạy dỗ, không có loại thi từ
ca phú nào mà cô không làm được. cô còn
là một tiểu thư khuê môn bất xuất, hội hè
đình đám không hề lui tới, tuổi đã mười
sáu rồi mà chưa từng đi ra ngoài, loại tam cô
lục bà như ni cô sư bà... có bao giờ bén mảng
tới nhà cô được.
Riêng có một hôm, khi tôi đi ngang qua nhà, ông
lão đứng trước cửa gọi:
"Có phải
bà là bà mối đấy không?"
Tôi đáp:
"Thưa chính
tôi đây"
Họ mới đưa
tôi vào nhà. Ông lão chỉ cô gái, nói:
"Dây là con gái của lão, lão muốn tìm một
chàng rể tướng mạo dễ coi, lại biết hiếu
thuận cha mẹ, bà để ý kiếm dùm lão một người."
Tôi mới nhắc
đến cậu, thì ông ấy nói:
"Già này
có nghe danh của cậu ấy, nhưng không rõ đức
hạnh ra sao"
Tôi nói:
"Cậu ấy
tuy tuổi thiếu niên nhưng tài lão thành, tiếng
đồn không ngoa. Duy có một điều là cậu ấy
muốn thấy mặt người rồi mới nộp sính lễ.
Như tiểu thư đây tài mạo song toàn chắc vừa
ý cậu, nhưng không rõ tôn ông có cho phép cậu
ấy đến thăm không"
Ông lão nghe
xong sầm nét mặt nói:
"Ăn nói hồ
đồ. Chỉ có người Dương châu nuôi ngựa gầy
mới phải cho người ta xem trước, chứ con gái
nhà ta đời nào lại cho trai đến xem mặt."
Nghe ông lão nói
vậy, tôi không biết nói gì thêm nên rút lui,
bởi vậy e rằng việc này khó thành.
Bán Dạ Sinh suy
nghĩ rồi nhủ lòng:
"Như ta hôm
nay, trên khôngcòn cha mẹ, dưới không có anh
em, một thân một mình, mai kia cưới vợ, biết
nhờ ai trông trước trông sau, nhất là những
lúc vắng nhà vì phải đi học xa hoặc ra làm
quan. Ông cụ đây tâm tính như thế, phép tề
gia như thế nào, không cần nói cũng rõ. Mình
mà vào làm rể nhà này thì việc nhà việc cửa
đã có cha vợ, đi đâu cũng khỏi lo gì cả,
thật càng hay chứ sao"
Rồi tuy không
nén được vui mừng, chàng cứ nằng nặc đòi
được dàn xếp để được thoáng thấy tư dung
hay nghe qua tiếng nói cuả nàng, vì vợ con là
chuyện một đời. Bà mối mới bảo:
"Sao cậu không
đi tìm thầy đồng xem quẻ? Nhân duyên tốt thì
cậu cứ gọi Lưu bà này xuc?tiến mối manh, tiện
lợi đôi bề".
Chàng nghe lời,
hôm sau lại thầy đồng nổi tiếng trong vùng, khấn
khứa tên tuổi đôi đàng, xóc quẻ thì đươc?
quẻ dạy:
Không còn hồ
nghi
Nữ nhân quý
báu
Cẩn thận canh
chừng
Không cho ruồi
phạm
Sinh đọc xong,
nhủ rằng vợ chưa cưới chắc hẳn là đẹp, nhưng
còn muốn được rõ hơn, mới xin xăm thêm một
quẻ, quẻ thứ hai ra rằng:
Lấy vợ đoan
trang
Chồng phải kính
lễ
Khóa chặt cửa
nhà
Ruồi vô không
lọt
Chàng bằng lòng
lắm, mới cho gọi mụ mối đi liệu việc hôn nhân.
Thiết phi đạo nhân ban đầu còn từ chối, sau
mụ mối nói mãi, rồi cũng thuận gã, lại còn
viện lẽ nhà neo người, bắt Sinh ở rể.
Lại nói về
dung mạo của quý hương, hôn lễ xong xuôi, tấm
mạng che mặt tân nương đêm động phòng một
khi đã tháo, quả thật dung nhan hoa nhường nguyệt
thẹn, trên đời có một không hai, còn hơn lời
mụ mối mô tả nhiều, hẳn nhiên là vậy
Duy một điều,
tính tình nết na có thừa mà lẳng lơ tình tứ
lại không đủ nên đôi phần không được hạp
ý chồng. Ấy chẳng qua vì thường ngày ở nhà
được cha mẹ dạy dỗ nghiêm túc, tai không nghe
dâm thanh, mắt không nhìn tà sắc, sách đọc nếu
không là Liệt nữ truyện thì cũng là Hiếu nữ
kinh. Mà những điều này thì trái lại với tâm
sự của Bán Dạ Sinh , cho nên Sinh đã đặt cho
nàng hỗn danh Nữ đạo học, bởi vì từ ngôn
ngữ dến cử chỉ đều giống hệt tác phong của
cha.
Nghe ai nói một câu cợt
nhả là nàng đỏ mặt, lập tức bỏ đi chổ khác.
Bán Dạ Sinh đôi
phen đòi hoan lạc vơi nàng lúc ban ngày để đưọc
ngắm xem chổ kín nhưng nàng xấu hổ, quyết liệt
từ chối. Đôi dịp định kéo vợ lại lột bỏ
xiêm y thì nàng la hét inh ỏi như bị cưỡng dâm
vậy.
Ban đêm nàng
ngoan ngoãn trong bổn phận vợ chồng, có điều
trông nét mặt không vui, không biết sao, chỉ thấy
nhạt nhẽo mà không thấy gì hào hứng. Lúc ân
ái với nàng, Sinh chỉ vừa vừa phải phải mà
thôi,vì nàng không muốn chồng bày vẽ nọ kia.
Muốn gần gụi theo lối "cách tường thủ hỏa"
(cách vách lấy lửa), tức ôm hậu bộ), thì nàng
cho là điều nhơ nhuốc, không hợp tác. Muốn xáp
trận theo lối "đảo kiêu lập chúc" (chúi
ngọn nến xuống, tức trồng chuối), thì nàng sợ
hãi như lỗi đạo phu thê, phải khó nhọc lắm mới
gác được chân nàng lên vai. Còn khi khoái cảm
đến tột cùng, có kêu nàng mấy tiếng em em, mình
mình, nàng cũng làm ngơ không đáp
Bán Dạ Sinh rất
đỗi khổ tâm, nghĩ thầm trong bụng:
"Tiếc thay
một tuyệt thế giai nhân, mà không có một chút
lơi lả. Nàng chẳng khác một khúc gỗ, một pho
tượng, nằm bên cạnh mình, có khoái lạc gì dâu,
nhưng biết làm sao đây. Thôi thì từ từ uốn
nắn, may ra có thay đổi được chăng".
Bèn ghé hiệu
sách mua một quyển Xuân cung trình bày rất tinh
xảo ba mươi sáu tư thế nam nử hợp hoan. Quyển
này do học sĩ bản triều làTriệu Tử Ngang soạn
gồm ba mươi sáu bài thơ dùng ca tụng lạc thú
ái ân. Sinh đem về phòng để cùng đọc với
nàng, thâm ý là để nàng thấy trai gái giao
hoan với nhau không phải đơn giản chỉ là một
lối, trái lại thiên biến vạn hóa vô cùng,
khiến cho lạc thú phòng the thêm lên nhiều vẻ,
rỏ ràng là những trò nọ kiểu kia giữa nam nữ
bất lâu không phải do Sinh tự bày ra, người xưa
cũng đã làm rồi, sách vở thời sau ghi lại
là để làm chứng đấy thôi.
Lúc mới cầm
sách, Quý Huơng không biết bên trong nói gì, nghĩ
bụng nếu không phải nói về núi sông thì chắc
phải nói về hoa cỏ.
Nhưng khi giở
sách ra xem thì lại thấy ở hai trang đầu có đề
bốn chữ đại tự Hán cung di chiếu (hình ảnh
còn lưu lại trong cung điện nhà Hán). Nàng nghĩ
trong cung điện nhà Hán có rất nhiều hiền phi
thục viện, chắc đây là di ảnh của các bà ấy,
nên tò mò lật xem. Chừng lật qua trang ba thì
thấy một ngươi đàn ông ôm một người đàn
bà, cả hai đều trần truồng như nhộng, giao tình
bên một hòn non bộ. Lập tức nàng đỏ mặt tía
tai, nổi giận mà rằng:
"Loại cách
bậy bạ này lấy ở đâu về? Sao lại để ở
đây làm ô uế phòng ta? Mau gọi a hoàn đem đi
đốt".
Bán Dạ Sinh cản
lại, nói:
"Đồ cổ dấy,
giá trăm lượng vàng. Anh mượn của bạn về
xem. Nếu em có trăm lượng vàng để thường
cho người ta, thì hãy đốt; nếu không, em nên
để đó cho anh xem chơi vài hôm, rồi đem trả
cho người ta"
Quý Hương thưa:
"Xem danh thư
pháp họa để bồi dưỡng tính tình, chứ loại
sách nhảm nhí này đọc có ích gì?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Nếu là
truyện sằng bậy, thì họa công vẽ lại để làm
gì và người sưu tầm cũng không dại gì bỏ ra
một số tiền lớn để mua về. Phải nói chỉ vì
từ khi khai thiên lập địa đến giờ, dây là
việc làm đứng đắn nhất. Cho nên văn nhân học
sĩ dùng màu sắc để vẽ dùng lụa là để thêu,
hoặc bày nơi hàng sách, hoặc giữ chốn kho tàng,
để người sau biết mà bắt chước, nếu không
lẽ âm dương giao cảm dần dần sẽ bị mai một,
đến nỗi sẽ xảy ra cảnh chồng bỏ vợ, vợ oán
chồng, nhân gian tuyệt đường sinh con đẻ cháu.
Hôm nay anh mượn về, không nhũng để chính anh
xem, mà còn muốn cho em đọc để hiểu lẽ đời,
rồi mới thụ thai sinh con đẻ cái. Có như vậy
sẽ hết bị trói buộc bởi quan niệm đạo đức,
mà tình vợ chồng sau này còn đơm bông kết
trái nữa. Sao em tỏ vẻ muộn phiền?"
Quý Hương bảo:
"Em không
cho đây là việc đứng đắn. Sao xưa cổ nhân
không bày ra phép tắc dạy người ân ái công
khai giữa ban ngày, mà lại lén lút chờ canh
khuya thanh vắng trong phòng tối tăm chật chội,
khác nào kẻ trộm. Xem thế đủ rõ là không
phải chút nào".
Bán Dạ Sinh đáp:
"Nàng nói
vậy cũng có lý. Nhưng toàn do lỗi từ thân
phụ, bởi hồi nhỏ cứ nhốt nàng trong nhà, mặt
trời không thấy, không hề nghe chuyện trăng hoa,
đầu óc hẹp hòi, kiến văn ít ỏi, nào có biết
đời là gì. Đời thì chỉ có anh đây, giữa
bọn đàn ông mới hiểu rành chuyện phong lưu lịch
duyệt mà thôi. Cứ như đàn bà con gái ai cũng
như em cả, nào ai dám nghĩ vợ chồng cũng nên
hợp hoan bạch nhật? Cặp nào hành dâm ban ngày
rồi công bố cho đời biết? Nếu chưa ai hề làm
thế, sao họa công lấy đâu làm căn cứ, vẽ
lại trong sách, tài tình sống động như vầy...
làm ai ngó cũng xao xuyến tâm can?"
Quý Hương nói:
"Vậy chớ
ba má em không phải vợ chồng sao, mà nào có
bao giờ yêu đương ban ngày".
Bán Dạ Sinh nói:
"Xin hỏi làm
sao em biết được là ba má không giao hoan ban ngày?"
Quý Hương nói:
"Nếu có thì
em cũng bắt gặp một lần. Chẳng lẽ em tới muời
sáu tuổi rồi mà không bắt gặp được lần nào
hay sao. đừng nói chi thấy, ngay cả nghe, em cũng
chưa nghe bao giờ".
Bán Dạ Sinh cười
to:
"Thôi đi cô
ơi, việc đó con cái trong nhà không thấy, không
nghe, chứ còn bọn a hoàn, nô tỳ thì có đứa
nào không nghe không thấy. Ba má khi nào giao hoan
thì phải đợi em đi khỏi, rồi khóa trái cửa
lại, chứ em mà biết đươc, lỡ động lòng xuân
rồi sinh dạ băn khoăn, ấm ức trong lòng thì
sao, cho nên ba má phải giấu em. Em không tin cứ
hỏi a hoàn của em mà xem ba má ban ngày có làm
tình hay không."
Quý Hương suy nghĩ một chập, nói:
"Ban ngày ba
má cũng thường đóng cửa ngủ, có lẽ để
làm việc này cũng không biết chừng, sau đó
hai ông bà nhìn nhau có vẻ ngượng ngùng."
Bán Dạ Sinh nói:
"Làm tình
ban ngày thích hơn làm tình ban đêm gấp mưới
lần. Cái thú ở chổ vợ chồng nhìn thấy nhau
mới hào hứng hơn. Riêng có hai loại vợ chồng
không bao giờ yêu nhau ban ngày."
Quý Hương hỏi:
"Hai loại nào
vậy?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Loại thứ
nhất, chồng xấu vợ đẹp, loại thứ hai vợ xấu
chồng đẹp"
Quý Hương nói:
"Tại sao hai
loại vợ chồng này không làm tình ban ngày
được?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Khi lâm trận,
thì cả hai vợ chồng phải thương yêu nhau, tinh
thần huyết mạch phải giao hợp với nhau mới thích.
Nếu người vợ da dẻ trắng phau, nỏn nà như một
viên ngọc từng giũa mài, thì người chồng cởi
xong quần áo ôm vợ vào lòng, vừa ân ái vừa
ngắm nhìn, tự nhiên sẽ cảm thấy cực kỳ khoái
lạc, hạ bộ bất giác sẽ cứng lên và to ra.
Nhưng nếu người đàn ông xấu như ma, thịt vừa
den vừa thô, mặc quần áo để che lấp, chứ đã
cởi rồi thì cái xấu xí sẽ lộ hết ra ngoài,
không còn cách nào che giấu được. Đặt cái
xấu xí bên cạnh cái mỷ miều, thì làm sao người
đẹp không chán ghét mà buột miệng chê trách
thành lời. Thế là cái vật cứng kia sẽ mềm
đi, cái vật to kia sẽ thun lại, không biết đến
bao giờ mới hành sự lại được, thử hỏi
còn khoái lạc ở đâu. Thành ra đành làm tình
ban đêm là hơn, vì còn che dấu được. Đó la
trường hợp vợ đẹp chồng xấu. Còn trường
hợp vợ xấu chồng đẹp cũng vậy, không cần
phải nói thêm làm gì.
Riêng vợ chồng
mình thì khác: em trắng, anh cũng trắng, em hồng
anh cũng hồng, em nõn nà anh cũng nõn nà, nếu
mình không hành lạc ban ngày, không cùng khoe da
thịt với nhau mà cứ chui vào chăn mền để tìm
khoái cảm, há không phải là mai một cả một
đời, có khác gì những cặp vợ chồng xấu xí.
Em không tin, mình cứ thử xem, so cái thú vị với
lúc làm tình ban đêm ra sao."
Quý Hương nghe
đến đây, yên lặng nghẫm nghĩ, mặt tuy bẽn lẽn
mà lòng đã xiêu, má ửng hồng, mắt long lanh.
Bán Dạ Sinh nghĩ
thầm:
"Dục tình
đã dậy, còn đợi chi chưa ra tay.
Có điều nàng
chớm động tình, sóng tình chưa dậy, nếu vồ vập
ngay thì có khác gì kẻ đói gặp thức ăn, cứ
chụp nuốt, không kịp nhâm nhi, rốt cuộc nào biết
thơm ngon là gì. phải làm cho nàng thành quýnh
quáng, dâm tình tột độ, chừng đó hãy gầy
cuộc mây mưa".
Sinh bèn ngồi lên ghế bành,
kéo nàng vào lòng lật từng bức họa trong
quyển Xuân cung cùng xem với nàng. Phần trìngh
bày có khác với loại sách cùng loại. Trong mỗi
bức họa, nử trang trên vẽ cảnh xuân tình, nửa
trang dưới là lời bạt, mấy câu đều giải thích
sự việc, mấy câu sau ca tụng tài nghệ của người
vẽ, tất cả đều là bút phê của các bậc
danh nhân.
Bán Dạ Sinh dặn
nàng tưởng tượng như đang ở trong cuộc, thấm
nhuần tinh thần từng bức họa để sau này bắt
chước cho khéo. Sinh vừa xem vừa đọc cho nàng
nghe.
Bức thứ nhất
vẽ thế Túng điệp cầm phong (mặc bướm tìm hương).
Lời bạt ghi: người nữ ngồi bên hòn non bộ,
hai chân bẹt ra, người nam đưa ngọc hành vào âm
cung, luồn bên này lách bên kia nhu bướm tìm nhị
hoa. Bấy giờ:vì nam, nữ mới nhập cuộc chưa đến
hồi cụp lạc, nên mắt họ giương to, trông không
khác lúc bình thường cho lắm.
Bức thứ hai
vẽ thế giáo phong nhưỡng mật (ong khôn lo hút
mật), lời bạt ghi: Người nữ nằm ngữa trên
chăn bông, tay nắm ch8ạt hai vế đưa lên cao để
đón ngọc hành, người nam do d0ó, thấy rõ nhị
hoa ở chỗ nào, tùy tiện tấn công. Bấy giờ
vẽ mặt người nữ khao khát, còn người nam thì
mặt mày gay cấn, khiến người xem phải hồi hộp,
lo âu giùm, rõ thật tạo hóa trớ trêu.
Bức thứ ba vẽ
thế Mê điểu quy lâm (chim lạc bay về rừng). Lời
bạt ghi: người nữ nằm trên giường, hai chân
giơ lên, hai tay đỡ vế của người nam, người
này từ trên ấn thẳng xuống, nom như chim kia đi
lạc đã lâu, thấy rừng cũ lao thẳng về. Nam nữ
thần khí bừng bừng nét vẽ kỳ diệu chẳng khác
nào bút bay mực múa vậy.
Bức thứ tư
có tên Ngạ mã bôn tào (ngự đói tìm máng
cỏ). Lời bạt ghi: Người nữ nằm trên giường,
hai tay ôm quàng lấy người nam, trông như bị buộc
bào nhau, hai chân gác lên vai của người nam.
Ngọc hành mất hút vào trong âm cung, khít khao
không hở một chỗ nào như ngựa đói vục đầu
ăn cỏ trong máng vậy. Bấy giờ cả hai như lả
người đi, mắt định nhắm mà vẫn muốn trông,
lưỡi định thụt vào mà vẫn thè ra. Nét vẽ
rất thần tình.
Bức thứ năm
vẽ thế Song long đấu luyện (hai rồng mệt đấu
nhau). Lời bạt ghi: Đầu người nữ kê bên gối,
hai tay buông xuôi mềm mại như bông, đầu người
nam thì dựa bên tai người nữ, toàn thân buông
xuôi cũng mềm mại như bông. Bấy giờ hai người
đã thỏa, hồn thả theo mộng đẹp, lặng lẽ sau
cơn kích động mạnh, tuy nhiên hai chân của người
nữ vẫn còn gác trên hai vai của người nam chưa
hạ xuống, thần thái ẩn vẻ sinh động, nếu không
có khác gì hai tử thi, người xem khoái cảm đến
cực độ, tưởng chừng mình cũng đang cùng họ
"chung quan chung huyệt" vậy.
Xem đến đây,
Quý Hương bất giác không dằn được nỗi hứng
tình, Bán Dạ Sinh định lật sang trang khác. Sinh đang
định lật sang trang khác xem tiếp với nàng thì
nàng đẩy quyển sách ra rồi đứng dậy, uể oải
nói:
"Sách hay
ở chỗ nào, làm người ta thấy khó chịu. Anh
xem một mình đi, em đi ngủ đây".
Bán Dạ Sinh ôm nàng vào
lòng cười nói:
"Em cưng,
trang sau còn hay lắm, xem xong mình sẽ đi ngủ".
Quý Hương nói:
"Chẳng lẽ
ngày mai không còn thì giờ để xem hay sao, làm
gì nhất định phải xem cho hết ngày hôm nay."
Bán Dạ Sinh biết
nàng đã động lòng, bèn kề miệng lại mà hôn.
Cả tháng nay, vợ chồng tuy đã ăn ở với
nhau, nhưng Bán Dạ Sinh nào biết lưỡi vợ dài
ngắn, vì mỗi lần Sinh định hôn, miệng nàng dều
mím lại. Lần này thì khác, miệng hoa hé nở, lưỡi
nàng còn êm ái giao tiếp với chồng.
Bán Dạ Sinh nói:
"Em cưng, mình
không cần lên giường làm chi, cứ coi ghế này
là hòn non bộ rồi bắt chước theo sách mà làm,
xem sao."
Quý Hương làm
mặt giận, nói:
"Bừa bãi
như vậy há có phải là con người nữa không?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Rõ ràng
không phải việc của người, mà là việc của
thần tiên. Anh với em thử làm thần tiên với
nhau một lát nhé."
Nói xong, Sinh
đưa tay lần cởi giải lưng nàng. Quý Huơng tuy
ngoài miệng không chịu nhưng bụng đã ưng. Nàng
chịu gác chân lên vai để mọi sự dễ dàng.
Cởi xong quần
ra, với nhau thấy ướt một khoảng, thì biết nàng
đã rịn dâm thủ trong khi xem tranh. Sinh cũng tháo
quần mình, đặt nàng ngồi trên bụng,dang hai đùi
mà đưa dương cụ vào âm cung, xong xuôi mới cởi
nốt áo phần trên mình vợ. Tại sao không bắt
đầu từ trên xuống, lại cởi quần trước rồi
mới đến áo? Phải là tay sành sỏi như Bán Dạ
Sinh mới làm như thế, vì nếu cởi áo trước,
người nữ mặc dầu trong lòng rất nôn nóng,
nhưng ngoài mặt vẫn còn e thẹn, do đó dễ gặp
kháng cự. Còn khi đại tướng nơi bản doanh đã
bị kềm chế rồi thì các nơi khác muốn làm gì
chả được. Binh pháp gọi đó là Cầm vương đảo
huyệt (đập hang bắt vua).
Quả nhiên Quý
Hương riu ríu để Sinh từ từ lột sạch quần áo.
Bán Dạ Sinh cũng
cỡi hết y trang trên mình, khởi cuộc mây mưa.
Hai chân nàng
dang ra hai bên ghế, dương vật vào trong rồi cứ
thế mà theo bức họa thứ nhất mà thực hành,
hết cạ bên nọ lại cào bên kia. Nàng soải tay
với nắm hai thành ghế, hạ thể nhấp nhô đáp
ứng phu quân, ngẫu nhiên theo đúng bức họa số
hai trong Xuân cung. Bỗng dương cụ chạm đến một
nơi mà nàng bỗng cảm thấy tê nhưng không phải
tê, mê nhưng cũng không biết có phải là mê,
nhột mà như ngứa, chịu không thấu mà bỏ không
đành.
Nàng nói:
"Một chỗ ấy
thôi anh ơi".
Bán Dạ Sinh biết
nhị hoa đã chạm, nên càng ra sức tróc nã
trong cấm địa, dồn hết sức lục công kích một
nới mà thôi. Một cách dìu dặt, ngọc hành dần
dần trổ tài, hết đi từ cạn đến sâu, lại
đi từ chậm đến nhanh, trước sau ra vô tới mấy
trăm lần. Hai tay Quý Hương bất giác ôm ghì lấy
mông Sinh, người nảy lên, nhục thân như ra công
vây hảm chặt tướng địch đang hỗn xược tung
hoành, tình thế gay cấn, thật không khác tình
trạng bức họa đồ số ba. Bán Dạ Sinh cũng lấy
tay o bế hạ thể nàng, nhưng trơn tuột không biết
bám tay vào đâu, vì dâm thủy lêng láng khắp
cả.
Bán Dạ Sinh nghĩ
thầm:
"Cô này đang
đê mê cực độ, lẽ ra còn phải phá ccô ấy
một phen. Nhưng đây là bước đầu, phải để
cô ấy thật no say đã rồi mới áp dụng phép
nuôi vịt."
Sinh bèn nhắc
chân nàng lên vai, hai tay ôm lấy eo thon của nàng
tiếp tục thẳng cánh thọc vào.
Bấy giờ ngọc
hành trơ trẻn và hùng hổ hơn, lấp hết âm
cung không chừa một chỗ trống. Sinh lại thúc đẩ
thêm vài trăm lần nữ. Mắt Quý Huơng trở nên
mông lung đờ đẫn, tóc tai xổ tung, thân thể
lả ra như người buồn ngủ.
Bán Dạ Sinh vuốt
ve nàng, nói:
"Em cưng, anh
biết em sắp tới bờ rồi. Trên ghế này không
tiện, mình lên giường tiếp tục nhé".
Quý Huơng đang
hồi khẩn trương, sợ bỏ lên giường thì không
khỏi ngọc hành rút ra ngoài mất, hứng thú gián
đoạn, huống chi lúc bấy giờ chân tay rũ liệt
không thể nhấc lên được, có muốn lên giường
cũng không tự đi dược. Vì vậy nghe Sinh đề
nghị, nàng nhắm mắt lắc đầu.
Bán Dạ Sinh nói:
"Em cưng, em
không đi nổi phải không?"
Quý Hương gật.
Bán Dạ Sinh nói:
"Anh không nỡ
để em đi. Anh bồng em lên nhé"
Sinh bèn ôm chặt
lấy tấm lưng thon, miệng nút chặt lưỡi nàng,
dương cụ vẫn khắn khít nơi xuân cung hkông rời,
ẵm nàng lên dập dình đi theo kiểu "tẩu mả
khán hoa" (cỡi ngựa xem hoa). Đến giường,
Sinh đặt Quý Hương xuống, lấy gối chêm dưới
eo nàng, rồi cong chân nàng lại, thúc đẩy thêm
vài trăm lần nữa.
Quý Hương bỗng rên lên:
"Anh yêu, em
chịu hết nổi rồi"
Chỉ nói được
bấy nhiêu, rồi nàng ôm chặt Bán Dạ Sinh mà
rên như người s8áp chết.
Bán Dạ Sinh biết
âm tinh đã ra, nên nhắm vô nhị hoa, từ bên tên
nhấn ngọc hành mạng thêm như thể bồi cho nàng
chết luôn. Quý Hương liền hồn siêu phách lạc.
Rồi hai người
ôm nhau lả ra mà ngủ. Hồi lâu Quý Hương cựa
mình, nói:
"Anh yêu, em
mới chết đi sống lại, anh có hay không?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Sao anh không
hay. Như thế không gọi là chết, mà là đê mê"
Quý Hương nói:
"Thế nào
là đê mê?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Nam có dương
tinh, nữ có âm tinh. Lúc hành lạc, khi khoái cảm
lên đến cực dộ, thì tinh suất. Lúc sắo xuất
tinh, thì từ da thịt đến gân cốt thảy dều tê
cứng, hồn phách mê mẩn, rồi tinh mới xuất.
Như thế là đê mê, như trong bức họa Xuân
cung số năm ban nãy. Em đã xem qua, chẳng lẽ không
nhớ sao?"
Quý Huơng nói:
"Theo anh nói
đê mê xong có thể tỉnh lại, có nghĩa là không
chết, phải không?"
Bán Dạ Sinh nói
Người nam, người nữ mỗi lần làm tình với
nhau có đê mê. trong khi người nam đê mê có
một lần thì người nữ, nếu âm tinh chưa ra vẫn
có thể đê mê mấy chục lần. Đê mê là cực
khoái, chớ có phải là chết đâu."
Quý Hương nói:
"Khoái lạc
như thế, dẫu chất cũng vui, huống chi là không
chết. Như thế này thì từ nay về sau, ngày nào
em cũng đê mê, đêm nào em cũng đê mê".
Bán Dạ Sinh cười
to:
"Em thấy chưa,
anh nói có sai đâu, cuốn Xuân cung này có phải
bửu bối hay không"
Quý Huơng nói:
"Đúng là
bảo vật. Chỉ sợ bạn anh đòi về"
Bán Dạ Sinh nói:
"Nói gạt
em chơi, chứ thật ra sách này của anh mua."
Quý Hương nghe
xong, vui mừng khôn xiết nên bật cười. Ân ái
xong, hai người trở dậy vận y phục rồi cung
nhau tiếp tục xem quyển Xuân cung, đến khi cao hứng,
lại cùng nhau ân ái. Kể từ hôm ấy, hai vợ
chồng trở nên tâm đầu ý hiệp, đường tình
càng thêm khắng khít.
Từ khi xem Xuân cung, Quý
Hương đã vơi lễ giáo, thành môn sinh chăm chỉ
trong trường phong lưu, ngày đêm không quản ngại
thực hành cách thức mới của thú gió trăng
trong sách, dẫu táo bạo khó khăn đến đâu cũng
thực tập cho được, hoặc trồng chuối theo
"đảo điêu lập chúc", ôm mông như
"cách sơn thủ hỏa". Rồi thì ba tất sen
vàng gác lên vai chồng mà ngủ, có muốn hạ
xuống lại không phải dễ.
Rồi dần dần
trong khi ân ái, tiếng động da thịt cọ xát, nào
tháo độ hăng say dâm cuồng giúp cho cuộc mây
mưa thêm phần nồng thắm, tất cả đều không
thiếu. Và để tăng thêm hứng thú, Bán Dạ
Sinh còn dến tiệm sách mua về các loại sách
phong tình, như Tú Tháp dã sữ, như Quân truyện,
như Bà tử truyện, cả thảy một hai chục cuốn
đóng thành bộ, để trên bàn cho nàng xem lúc
nào cũng được, còn sách đã đọc xong trước
kia thì bó lại cất, chỉ e nàng bỏ mới ôn cũ,
mà trở về vẻ đạo mạo như ngày trước. Tình
vợ chồng thắm thiết, hòa hợp, vui sướng hơn
bao giờ, nay thì dù có vẽ ba trăm sáu mươi bức
xuân cung cũng không diễn tả cho hết được
Có thể nói,
Bán Dạ Sinh đến đây là khoan khoái tột độ
rồi, riêng có một diều là trong hki vợ chồng
hết sức hài hòa, thì giữa ông nhạc và chàng
rể có chút gì không hợp. Nguyên nhân là Thiết
phi đạo nhân vốn cố chấp, thích chất phác ghét
phồn hoa, không ưa chuyện trăng hoa, chỉ mến bàn
về vấn đề đạo lý.
Từ khi Bán Dạ
Sinh vào ở rể, trông thấy Sinh ăn mặc diêm dúa,
bảnh bao, đạo nhân cảm thấy buồn rầu, đâm ra
hối hận, than thầm:
"Gã này chỉ
có cái mã mà không có cái ruột, chắc không
nên người, con gái ta còn biết nương tựa vào
đâu. Nhưng sính lễ đã nhận, duyên châu trần
đã kất, không thể thay đổi gí được nữa.
Thôi đành đã lỡ tính theo lỡ, tùy cơ mà răn
đe, dạy dỗ nó nên người đứng đắn".
Vì vậy từ lối
ăn mặc tiếng nói đến việc đi đứng ngồi nằm,
nhất nhất đều để tâm sử trị.
Lời xưa nói
rất đúng "giang sơn dí cải, bỉnh tính nan di",
Bán Dạ Sinh tâm tính trẻ tuổi, lại cha mẹ mất
sớm, chưa từng bị người lớn kềm chế, nân
ai dễ gì bắt bẻ được. Vì vậy có mấy lần
Sinh bất bình cha vợ. Có điều nghĩ đến tình vợ
chồng sợ bị sứt mẻ, Sinh đành nhẫ nhục, nhưng
nhịn mãi rồi cũng tới mức mà thôi.
Sinh Dành dấu
Quý Hương mà, bàn riêng với nhạc phụ:
"Con vốn quê
mùa cục mịch, trên thiếu thầy giỏi, dưới vắng
bạn hiền, do đó học hành không tiến, công
danh chẳng đạt. Nên con muốn xin phép bái biệt
nhạc phụ đi đó đi đây, trước là để mở
rộng kiến văn, sau là tìm thầy chọn bạn học
hành, đọi khoa thi, may ra đỗ đạt hầu xứng với
công ơn nhạc phụ đã chọn con làm rể, ý nhạc
phụ nghĩ sao?"
Thiết phi đạo nhân nói:
"Từ khi con
vào làm rể nhà ta đến nay đã được nữa măm
rồi, nay mới có câu nghe được, chứ mọi khi
toàn lời lẽ của bọn đãng tử. Con chịu đi xa
cầu học là điều rất tốt, sao ta lại không bằng
lòng."
Bán Dạ Sinh nói:
"Cha đã bằng
lòng, nhưng e vợ con lại trách con bội bạc, ăn
ở với nhau chưa được bao lâu mà đã vội đi
xa, chi bằng cha cứ nói đây là ý cha muốn, không
can gì đến con, để con ra đi khỏi trở ngại"
Đạo nhân nó:
"Cũng phải"
Thế là việc
bàn tính đã quyết. Trước mặt con gái, đạo
nhân khuyên rể đi xa cầu học. ra vẻ không chịu,
đạo nhân bèn làm mặt giận, bấy giờ Bán Dạ
Sinh mới chịu vâng lời.
Quý Huơng đang
thời say mê khoái lạc, bỗng nghe nói chồng sắp
ra đi thì chẳng khác nào trẻ con bị dứt sữa,
vô cùng buồn khổ.
Thế là nơi buồng
the, mây mưa dập dồn nối tiếp, cốt để bù trước
những lúc thiếu thốn sau này. Riêng Bán Dạ
Sinh cũng hiểu, rằng trên con đường muôn dặm
lẻ loi, không chắc gì nhất thời tìm được một
giai nhân nào, nên dốc lòng ra sức để thỏa
mản vợ, chẳng khác mình đặt tiệc đãi người,
mà thực sự để mình cùng hưởng.
Qua mấy đêm ân
ái mặn nồng, ai mà không bảo thật là một đôi
vợ chồng keo sơn gắn bó, duy chỉ có người
trong cuộc mới tự biết các tâm sự khác biệt
mà thôi.
Lúc sắp lên
đường, nó lời trấn an, để lại mọi thứ,
chỉ đem theo hai tên gia đồng cũ trước kia.
(Hết Hồi 3 ... Xin xem tiếp
Hồi
4) |