TOA
THUỐC TRỪ BỆNH LUÔN LUÔN ĐÒI HỎI XÁC THỊT
Khi hoàng Đế hỏi về toa thuốc trị bệnh cho một
người luôn luôn đòi hỏi xác thịt , không bao giờ
thỏa mãn. Tố Nữ kể câu chuyện như sau :
"Có một nữ nhân tuổi đã 30 nhưng việc tình dục
đòi hỏi như thiếu nữ mới ngoài 20. Nàng luôn luôn
cần gần gũi đàn ông, không có dương khí trong mình
thì nàng không sao chịu được , âm hộ nước nôi dầm
dề nhiều khi chảy ra ướt cả quần."
Lý do có sự kiện
này là vì trong âm hộ của nàng có một loại trùng
làm tổ . Đó là loại trùng thật nhỏ (cở 3 phân Tàu),
hình đuôi ngựa. Trùng này có 2 loại, đầu đỏ và
đầu đen. Loại đầu đỏ không linh hoạt bằng loại đầu
đen.
Trị bệnh này thỉ
dung phương pháp như sau : Dùng một mì nấu chín, vo thành
một vật giống như dương cụ lớn nhỏ tùy theo ý thích
của bê?h nhân, chế vô đó một ít nước tương, đâm
vô đâm ra nơi âm hộ đến một lúc thì các con trùng
đó cũng theo ra. Cứ tiếp tục như vậy như là giao hợp
với nam nhân, tới khi lấy hết tất cả trùng ra. Thường
trùng này làm tổ thì độ 30 con trong một âm hộ.
GHI
CHÚ:
Chuyện của Tố Nữ
khó tin nhưng cũng chẳng qua chỉ là cach thỏa mãn dục
tình của nữ nhân với lời tư an ủi rằng đó là
một phương thức chửa bệnh xấu của mình mà ngày
nay phụ nữ Tây phương thường dùng với dụng cụ tương
tợ.
Ngày nay các bệnh về
tình dục không thỏa mãn có 2 loại :
- Đàn bà mắc bệnh
đòi hỏi không bao giờ biết thỏa mãn và lãnh cãm.
-
Đàn ông tảo tinh ( xuất tinh quá sớm tức là khóc
ngoài quan ải) và vô năng (bất lực, không làm nên
trò trống gì).
Cả 4 trường hợp đều là bệnh này tương phản với
bệnh kia ở trong một tính phái. Bệnh sanh ra do việc
giao hợp quá mạnh bạo, gấp rút mà ra. Vậy để chữa
bệng này cần phải dùng vật lý trị liệu ( thuốc men)
và tinh thần trị liệu.
Trời sinh ra nam nhân khác với nữ nhân, tính dục dễ
dàng bị kích thích. Nhưng người dễ bị kích thích quá
thì có hại vì hứng tình lên nhanh thì xìu xuống cũng
nhanh. Trong trường hợp này bệnh dễ mắc là tảo tiết.
Mắc chứng này rồi thì sớm muộn gì cũng mắc chứng
vô năng. Người vợ của bệnh nhân này vì không
được thỏa mãn khi giao hợp với chồng nên bị măc
chứng lãnh cãm.
Tóm lại loại bệnh này là bệnh làm cho sự giao hợp
suy nhược. Trái với vô năng và lãnh cãm là giao hợp
bao nhiêu lần không th? đủ, không muốn nghĩ. Đây cũng
là một loại benh cầ chữa trị.
Toa thuốc trừ bệnh tảo tiết hay vô năng là toa thuốc
Ủy kê tán ( thuốc bột ) hay Ủy kê hoàn ( thuốc viên
). Toa thuốc gồm :
Nhục
tùng dung 3
phân
Ngủ
vị tử
3 phân
Viễn
chí
3 phân
Xà
sàn tử
4 phân
Thố
ty tử
3 phân
Đem cả 5 loại nghiền thành bột, mỗi ngày đến
lúc bụng đói thì dùng một muỗng canh, hoặc pha trong rược,
hoặc them mật mà vò thành viên. Thuốc rất hiệu nghiệm,
không có nữ nhân bên cạnh để sẳn sàng gầy cuộc
vui thì khong nên dùng thuốc này. Trong vòng 60 ngày uống
thuốc này thì có thể hạ ngã 40 người đàn bà khác
nhau dễ dàng.
Truyện kể có một người Thái thú tại Tứ xuyên tên
là Lữ Kính Đại, ông ta dùng thuốc này vao nhưng năm
đã quá 70 tuổi vậy mà vẫn sinh được thêm 3 người
con nữa. Sách cũng kể là khi ông dùng thuốc thì sự
giao hoan quá mạnh khiến cho phu nhân sinh ra nhiều bệnh
chứng, âm hộ đau nhức, phu nhân không thể ngồi
được.
Không muốn sử dụng
thuốc này nữa, ông Thái thú đem bỏ ra sau vườn. Một
con gà trống ăn phải liền trèo lên đạp mái một
con gà tơ, gà trống lên được thì không chịu xuống
nữa, mỏ vẫn cắn cái mồng của gà mái cho đến khi
con này giựt đứt ra.
Tên Uỷ kê tán có
từ sự tích này.
Chuyện và toa thuốc
nói trên ghi trong sách "Ngọc phòng bí quyết" và "Động
Huyền Tử " .
Trong sách "Cổ kim
lục nghiệm pháp" có ghi câu chuyện như sau :
Vua Tùy Dương Đế
xuống chiếu cầu ai có toa thuốc cường dương thì dâng
lên vua. Triều đình nhận được một biểu chương như
sau :
" Phu nhân của thần thiếp tên là Hoa Phù. Khi ông
ta lên 80 tuổi thì việc phòng trung không còn có thể
sinh hoạt được nữa. Cả 2 vợ chồng thiếp đều buồn.
Một ngày kia phu quân thiếp nhận được một toa thuốc
thần diệu là " Ích đa tán" từ sự chỉ vẽ của một
người bạn . Ích đa tán gồm các dược liệu như sau
:
- Sanh địa hoàng 1 tiền
. Rửa sạch thái mỏng ngâm vào một lít rượu . Thời
gian sau vớt ra ngiền thành bột .
- Quế tâ? 2 phân
- Cam thảo 5 phân
- Bạch truật
phân
- Hàn thái 5 phân
Đem 5 vị thuốc này nghiền nát thành bột, sau bữa
ăn uống chung vơi rượu , mỗi ngày dùng 3 lần , mỗi
lần dùng một muỗng canh .
Sau khi dđiều chế xong , phu nhân của thần thiếp chưa
kip sử dụng thì qua đời . Thần thiếp có một người
giúp việc trong nhà năm ấy đã ngoài 70 tên là Ích
Đa . Tên này nhiê? bệnh nê thân thể suy nhược ,
hay đau lưng nhức mỏi , đầu tóc bạc phơ , mỗi khi di
chuyển rất là khổ sở , thần thiếp tội nghiệp đem
thuốc Ích Đa Tán không còn dùng nửa đối với thần
thiếp mà cho hắn ta . Không ngờ chỉ dùng trong một tháng
, thì lưng hắn đã thẳng không còn cong nửa , da lại
hết nhăn , toc lại trở nên đen , mặt mài hồng hào
, tu67ơi mat như thanh niên độ cường tráng . Trong thời
gian này thần thiếp có hai nữ tỳ tên là Phan Tưc va
Cảm Thiện , cả hai điều lấy Ích Đa ,hai năm sau cả
hai nàng sinh với hắn bốn đứa con . Ích Đa tối ngày
lâ? la ngoài đường rượu chè , chờ đến tối vợ
về bày cuộc mây mưa . Vợ chịu không thấu nên một
hôm Cẩm Thiện bỏ chạy trong tệ thất , Ích Đa rượt
vợ tận phòng thiếp, bắt đè xuống giao hợp ngay tại
đây. Chứng kiến sự mạnh mẽ,cường dương khác thường
của Ích Đa, thần thiếp hứng tình nên thuận lòng nhảy
vào cuộc vui . Thần thiếp tuy quá 50 tuổi nhưng trước
cảnh này cũng không đè nén được mình nên để
cho xác thịt đẩy đưa. Thời gian qua thần thiếp có với
Ích Đa 2 con. Một mình hắn qua hệ với 3 người đàn
bà nhưng vẫn không thấy mỏi mệt chút nào, tinh lực
vẫn dồi dào, cuộc vui vẫn hào hứng. Một ngày nọ
thần thiếp nghĩ rằng mình thông gian và có con với người
hầu cận là một việc vô cùng tệ, mất giá trị mình
nên lừa dịp giết Ích Đa đi. Thần thiếp mổ dương vật
hằn ra xem xét tại sao hắn mạnh như vậy thì thấy dương
vật hắn thoa đầy chất hoàng tuỳ. Nếu hoàng thượng
muốn chinh phục nữ nhân thì phải dùng Ích Đa tán và
sử dụng Hòang tuỳ. Đây là một toa thuốc tuyệt diệu,
thần thiếp kính dâng lê? bệ hạ."
Đây là một biểu
tấu rất thật. Phản ứng về tình dục của người phụ
nữ cũng rất thực. Triều đình lưu trữ biểu chương
này chứng tỏ rằng y giới trong triều đình rất là
chú ý đến khía cạnh dục tính của vấn đề.
Ngoài các toa thuốc trên còn có các toa như " Cực
yến phương" , " Cát Thị phương", " Lão bà phương", " Bản
thảo của Tô Kính", " Bí mật yếu thuật phương". Trừ "
Cực yếu phương" thất truyền từ lâu, các toa thuốc
khác vẫn còn truyền tụng cho đến ngày nay coi như thứ
thuốc bổ dương hữu hiệu và có kết quả chứng
nghiệm.
"Cực
yếu phương" gồm :
- Xà sàn tử
2 phân
- Thố hệ tử
2 phân
- Ba kích thiên bì
2 phân
- Viễn chí
1 phân
- Ngũ vị tử
1 phân
Các dược liệu trên
được nghiền nát thành bột, mỗi lần dùng một nửa
tiền pha với rượu, dùng trong 20 ngày thì có kết quả
( tinh khí hăng cường, giao hoan không biết mệt).
"Cát
thị phương " chuyên trị :
- Nam nhân dương cụ
không thức nỗi , xìu trơ
- Nữ nhân âm bế đến nỗi không thích giao hợp
Dược liệu gồm :
- Nhục tùng dung
- Thố ty tử
- Sà sàn tử ,
- Chí viễn
Mỗi thứ một lượng
, đem nghiền nát thành bột , pha với rượu . Mỗi ngày
dùng ba lần , mỗi lần dùng một muỗng canh .
"Lão bà phương
" cũng là toa thuốc trị dương cụ , không giương ,
gồm :
- Câu dĩ
- Xương bồ
- Thố ty tử
Mỗi thứ một phân , nghiền nát , moi ngày dùng
ba lâ? , mỗi lần dùng một muỗng canh, trong một tháng
thì dương vật cứng như sắt , như đong , như gang.
"Bí
mật yếu thuật dương " :
- Lấy một tổ ong vào tháng tám , ép suốt một
đêm rồi đem vào bỏ vào trong một cái túi nhỏ rồi
đem treo trên một cành tre, đến một ngày thì tổ ông
biến thành " A? can diệu dược ", một thuốc kích dục
hữu hiệu .
Khi trong mình không
thể hứng tình mà muốn giao hoan thì lấy tổ ong đó cắt
ra vài miếng . Chia là hai phần .
- Phần thứ nhất để
lên lửa riu riu , và nấu cho đến khi âm ấm .
- Nửa phần còn lại
cho vào lòng bàn ray , nhổ nước bọt vào cho mềm rồi
đem thoa lên dương vật để như vavậy cho khi khô những
bụi xác rớt xuống hết rồi giao hợp . Nên nhớ nếu
muốn tăng cường cảm khoái thì chà lên quy đầu , nếu
muốn dương vật tăng trưởng lên to lớn hơn , thì nên
thoa xung quanh cua nó .
-
Khi giao hợp nên pha phần đang để lửa âm ấm
llia với rượu mà uống .
Còn một phương
pháp là cho dương vật bị liệt dương mà lên dược
là lấy "dầu ba đậu " hay thuỷ ngân thoa lên vùng lông
trước khi muốn giao hợp .
Tất cả những thuốc
và phươngh pháp trên là dùng để chữa chứng
không lên của thằng nhỏ , một mặt chửa trị nhưng một
mặt khác cũng là kích thích thêm phần khoái cảm .
Muốn giảm bớt tình
dục quá xung mãn của nam nhân người nữ có thể
thuyết phục để châm cứu họ ,. Điểm châm cứu là
điểm "tam tâm giao
" cách ba tất kể từ gót chân đi lên . Giảm bớt
sự dương cường của nam nhân người nữ có thể
tránh thnụ thai hay khỏi mệt trong những lần giao hoam mình
không đủ sức chịu đựng .
Các thứ nói trên
chỉ là phương cách đi tìm khoái cảm, vấn đề quan trọng
hơn là làm sao trẻ mãi không già , truờng thọ mà
vẫn thụ hưởng
được khoái cảm .
Cổ thư còn ghi lại
những sự tích về mặt này .
Dương quí phi muốn cho Đường Huyền Tôn sủng ái
mình nên luôn luôn chú trọng trau chuốt về ba mặt sức
khoẻ , sắc đẹp và tính kỷ (kỷ thuật giao hợp sao
cho tạo sướng khoái tối đa cho nhười giao hợp với
mình ). Quí phi ăn nhiều trái vải (lệ chi ) vì thứ trái
cây nầy có dược tính làm cho thề lực kiện khang. (Tuy
nhiên không ăn nhiều quá để có thể bị chứng máu
cam vì trái vải tính nhiệt). Sự kiện thích ăn một
trái gì đó để tăng cường thể lực ở đâu cũng
có . Bên Ai cập này xưa các Hoàng hậu
muốn cho da thịt mình bóng loáng , đẹp đẽ đã
cho ngâm trân châuvào rượu đe uong . Qui phi cung con
dung những loại thuốc bổ âm khác , đặc biệt là qua
các thức ăn như yến và trái vải.
Trái vải rất có tác dụng lên can tạng(gan ) và tì
tạng(bao tử) nghiã là có thể làm tiêu trừ những
độc khí trong thân thể và có tác dụng chấn tỉnh
tinh thần khiến không cảm thấy mệt nhọc , bãi hoãi.
Cổ tịch của Trung Hoa khi nói về nhưng cách cường
tinh bổ dược có nhắc đến một khí cụ dùng cho nữ
nhân hình dáng tương tự như dương cụ , do đo ta thấy
rằng ngày xưa cũng đã biết tính cách gợi dục cuả
vật chất .
Dễ thấy nhất trong
việc nầy là chuyện dùng trái đào. Đem một trái đào
nhâm trong giấm chua thì có được một thứ gọi là "thôi
dâm dược " thứ thuốc kích thích dâm . Ngòai tính
chua, đào còn có hình dạng như bộ phận sinh dục của
nũ nhân , là một thứ có tính cách gợi dục , khi
nhìn trái đào thì con người sẽ liên tưởng ngay đến
chuyện đàn bà và mây mưa . Chuyện truyền kỳ ghi lại
trong sách "Liệt tiên toàn truyện " về bà Tây vương
mẫu xuống trần năm Nguyên Phong
nguyên niên tặng cho Hán Vũ Đế bảy trái đào
tiên mọc ngoài Đông hải tiên sơn để chúc cho Vũ
Đế sống lâu cũng có ý nghiã xa gần về tình dục .
Người đời Hán có nhiều người theo phái tính đào
(tính cách gơị cái giống nữ của trái đào ) nên đặt
ra chuyện nầy.
Kinh Thi của Trung Hoa (loại
ca dao của ta ) có câu "đào chi yêu yêu, xử nữ vu
quy, nghi kỳ thất gia..." là tả người con gái đẹp trước
khi về nhà chồng , mặt mơn mởn xinh tươi như trái đào
. Ở Nhật Bản "Phương diện tập" cũng ghi chép những
câu ca miêu tả người đẹp. Điều đó cho ta thấy rằng
loài người ở đâu cũng thế thường ca ngợi sự
hoan lạc của tính ái (sung sướng cuả giao hợp ), và
gom góp các chuyện tươi đẹp của nhân gian thành các
bài ca dao .
Loài người là loài
duy nhất biết tạo ra trong trí mình sự liên tưởng và
sự không tưởng , cho nên khi dùng thuốc thì phải tin
tưởng nó có hiệu quả . Có tin thì thuốc mới công
hiệu, còn không tin thì uống bao nhiêu thuốc cũng vô?
ích mà thôi . Trong chuyện
"Quỉ giao" có kể chuyện một người bị bệnh giao
hợp không thỏa mãn đêm đêm nằm mộng thấy mình hành
sự với yêu quái . Mộng này sinh ra vì sự tưởng tượng
tới tình dực ban ngày mà thôi . Tự kỷ không nghĩ
chuyện ân ái thì mộng cũng không còn
Một nhà sáng tác nhạc người Nhất tên là Bình
Vĩ Xương Hoàng khi nằm bệnh viện trị bệnh kế thạch
đã tự chữa bằng cách niệm danh Bồ Tát mỗi ngày
một vạn lần . O?h dự trù niệm như vậy trong năm năm
thì sẽ khỏi bệnh, nhưng chỉ trong vòng một năm thì đã
khỏi . Nguyên do hết
bệnh vì ông an tâm niẹm kinh và hô hấp dài . Khi hít
vào lượng dưỡng khí lớn tim và phổi được kích
thích để hoạt động , trong thân thể sẽ sinh ra các
phản ứng hữu ích . Hô hấp dài hạn để tập trung ý
chí vào một chủ điểm sẽ quên hết tất cả phiền não
cũng là một yếu tố tâm ý tốt khiến cho mau lành bệnh.
Tin tưỡng mình sẽ hết bệnh cũng là một yếu tố
trong sự việc này .
Sách "Bí quyết ngọc phòng " có ghi thuật làm cho dương
cụ dài ra như sau: Dùng sơn thúc , tế tân , nhục tùng
dung , mỗi thứ một lượng bằng nhau . Tất cả được
trộn trong mật chó . Đem treo trong phòng ba mươi ngày thì
lấy xuống cà xát vô dương vật . Cách này có thể
làm cho dài ra thêm một tấc (Tàu).
Sách " Lục nghiệm phương
" có chỉ cách làm cho âm đạo nhỏ lại và nóng như
sau: Dùng thanh mộc hương hai phân , hợp với sơn châu
bốn phân. Ngiền cả hai thành bột , dùng nước miếng
của mình vê thành những viên nhỏ bằng hạt đậu ,
sau đó dùng những viên này xát bên ngoài âm hộ
thì rất có hiệu quả .
Các thứ thuốc và phương pháp áp dụng có hiệu
quả chắc chắn có
bạn sẽ tự hỏi: Người viết sách này tin rằng ngắn
có thể biến thành dài . Nhỏ có thể làm cho lớn .
Lớn có thể làm cho nhỏ . Tin là một yếu tố tâm lý
cần thiết để thực hiện có hiệu quả . Việc cọ xát,
thoa bóp chính nó đã làm cho máu huyết cho đó lưu
thông thêm , kích thích thêm cơ năng tình dục nên ít
ra cũng có hiệu quả phần nào . Thuốc chỉ là một phần,
tin là chuyện sẽ thành mới là phần quan yếu trong việc
cường tráng và cường tinh .
NHỮNG
CẤM KỴ KHI GIAO HỢP
Hoàng Đế hỏi Tố Nữ: Tinh lực của nam nhân
biến đổi bất thường , có khi yếu khiến dương vật
không dương lên , có khi tinh dịch yếu đến khô?g xuất
ra . Nàng có biết phép trị liệu nào không ?
Tố Nữ đáp :"Sự
kiện này cũng thường thôi , biết bao nhiêu nam nhân
đắm say tửu sắc đến sanh tật bệnh. Muốn trẻ mãi
không già không gì bằng đừng mê gái dẹp . Đây là
một điều rất quan trọng mà nhân sinh mắc phải vẫn
không chưà . Nếu vì sắc mà trị bệnh thì phải dùng
dược liệu trị ngay. Tuy nhiên trước khi bắt đầu giao
hợp phải tránh những cấm kỵ , vi phạm những cấm ky
thì dùng dược kiệu cũng vô ích mà thôi."
GHI
CHÚ :
Những
cấm kỵ đó là gì ?
Sách Tố Nữ có ghi
lại sau điều cấm kỵ như sau :
Kỵ
thứ nhất:
Không được giao hợp
vào ngày đầu tháng âm lịch ( thượng ngươn) giữa
tháng (lúc trăng tròn) và cuối tháng. Phạ vào câm
kỵ này con cái sinh ra sẽ bị thương tổn con mình thì "
không còn giương lên được " Trong mình lúc đó bị "
dục hỏa thiêu trung " ntghĩa là hỏa thị dục thiêu đốt
tâm can của mình nên nước tiểu phat?ra có màu đỏ
hay vàng lườm . Nhiều khi mang thêm bê?h di tinh . Tuổi
thọ bị giảm .
Kỵ
thứ hai:
Khi có sấm sét, mưa
gió , đất thảm trời sầu, động đất, tránh không
được giao hợp. Giao hợp thì con cái sinh ra sẽ bị câm
điếc , mù loà hay tinh thần suy nhược . Về phương diện
tâm lý thì đúa nhỏ sẽ có một tinh thần suy nhược
, đa sầu , đa cảm , luôn luôn ủ dột .
Kỵ
thứ ba:
Không nên giao hợp
khi đã ăn quá no hay khi đương cơn say. Phạm cấm kỵ này
nội tạng bị tổn thương , nước tiểu màu đỏ , mặt
tái xanh , lưng đau mỏi, mình mẩy phù thủng , tuổi thọ
bị rút xuống rất nhanh.
Kỵ
thứ tư:
Không nên giao hợp khi vừa mới đi tiểu xong .
Lúc này cơ thể chưa trở về trạng thái bình thường
, chưa sẵn sàng để mở ra hoạt động rất phức tạp
là giao hoan . Phạm điều cấm kỵ này thì về sau ăn uống
sẽ mất ngon , bụng phình to , tâm thần luôn luôn phiền
muộn , nhiều khi lơ đãng như người mất trí .
Kỵ
thứ năm:
Tránh giao hợp khi ngưòi
đã mầt sức vì mệt nhọc như đi bộ, lao động nặng
, mệt mỏi chưa phục hồi, trong minh bãi hoải. Phạm cấm
kỵ này thì ses4 bi mắc bệnh suyễn, miệng khô, đương
tiêu hoá bị trả ngại, các cơ quan bài tiết gặp những
giao động .
Kỵ
thứ sáu:
Không nên giao hợp
liền khi đương nói chuyện với nữ nhân mà đương
cụ nổi lên. Vi phạm điều này thì dương cụ bị thương
tổn, nội trạng bị suy, lổ tai không còn thính, tinh thần
bất an , ho suyễn . Nhắc lại, sáu điều cấm kỵ này
quan trọng đến nổi nếu phạm phải thì sinh bệnh, chỉ
có thần dược mới sửa nổi mà thôi.
Sách Tố Nữ ghi lại
cuộc đối thoại sau đây:
Hoàng Đế hỏi Cao Dương
Phu :"Ta nghe Tố Nữ nói nam nhân hay bị cửu lao và thất
thương , nữ nhân hay bị hồng , bạch đái và tuyệt
sinh (không thể sinh con). Thử hỏi vì sao mà sinh ra những
chứng bệnh này ?"
Cao Dương Phụ nói:"Nam
nhân thường bị các tệ nạn ngủ lao, luc cực và thất
thương. Các bệnh này sinh ra d0iều có nguyên nhân."
Hoàng Đế nói:"Ta
muốn nghe nói về thất thương, xin nàng trình bày cho rỏ."
Cao Dương Phụ nói:
Thất thương là:
- A? hản (mồ hôi
trộm)
- A? suy (yếu sinh ly
?
-Tâm thanh (tinh dịch
đổi màu không trắng)
- Tinh thiểu (tihn dịch
ít và lỏng bỏng)
- A? hạ ướt
- Tiểu ít
- Không cương cứng
Làm sao trị những chứng bệnh trên ?
Chỉ có cách dùng
phuc linh. Phục linh là thần dược có thể dùng quanh năm.
Các dược liệu khác dùng chung và các điều chế như
sau:
- Phục linh 4 phân
- Sương bồ 4 phân
- Sơn cu di 4 phân
- Quát tử cân 4 phân
- Thố hệ tử 4 phân
- Ngưu thằng 4 phân
- Thức thạch chi 4
phân
- Can địa hoàng 7 phân
- Te tan 4 phân
- Phòng phong 4 phân
- Xu dự 4 phân
- Thục đoạn 4 phân
- Sà sàn tử 4 phân
- Bát thực 4 phân
- Tam thiên kỵ 4 phân
- Thiên hùng 4 phân
- Thạch đâu 4 phân
- Đổ trọng 4 phân
- Tùng dung 4 phân
Các dược liệu nói
trên đem tán chung thàng bột, thêm vào mật ong , trộn
đều , vo lại thành viên bằng ngón tay, dùng ngày ba
lần, mỗi lần 3 viên .
Có thể không cần
trộn với mật ong, để bọt như vậy dùng như thuốc tán
, mỗi lần dùng một muổng canh, dùng liên tiếp 7 ngày
thì sẽ có hiệu quả, mười ngày thì s4 hết bệnh , 39
ngày thì sẽ trở lại bình thường. Nếu dùng thường
trực thì sẽ được cải lão hoàn đồng, thân thể
khoẻ mạnh. Trong thời gian dùng thuốc này, cử thịt
heo, thịt dê, cử không được uống nước lạnh (uống
trà nóng thì tốt ).
Kinh Dịch có nói:"Các
hiện tượng của trời đất là điềm triệu của cát
hung, tốt xấu, bởi vậy người đời căn cứ trên
thiên nhiên mà đoán được chuyện sắp xẩy ra. Những
điều cấm kỵ nói trên điều căn cứ trên triết lý
lấy thiên địa nhan làm gốc ."
- Điều cấm một là
vì các ngày tháng này tương ngày âm thần.
- Điều cấm hai là vì
các ngày giờ nà là tương đương thiên kỵ . Điều
cấm này cũng hấy nhắc đến trong sách Lễ Ký. Sách
Lễ Ký chép rằng khi trời nổi cơn mưa gió sấm xét
thì không nên thụ thai vì đó là lúc thiên nhiên đang
cường nộ, người giao hợp d6ẽ bị phong đơn. Lấy cái
nhìn tân tiến mà xét, thì có sấm xét thì trong lòng
ta không yên, việc phòng sự không còn hứng thú nữa.
- Điều cấm thứ ba
thuộc về nhân kỵ: A? no sẽ ảng hưởng đến tì (Bbao
tử), hỉ nộ, bi, thương sẽ bị ảnh hưởng đến nội
trạng . Y học ngày nay cũng có bàn luận xa gần ,đến
vấn đề này khi khảo về sự tương quan giữa âm và
thân (thân tâm y học ).
Ngoài ra còn có địa
kỵ mà người dân tương truyền cùng nhau là cơ bản
văn hoá Á Đông , đó là khô?g được giao hợp
trong đề chùa, thần mếu, phật pháp , đáy giếng chỗ
nhà bếp, nơi cầu ,chổ mồ mà, cạnh quan tài. Các điều
cấm kỵ này đưa ra là để ta an tâm rằng, mình không
có làm gì bậy thì như cuộc vui mới đạt được tuyệt
đỉnh của nó.
- Điều cấn kỵ
thứ tư là không được giao hợp khi mới tiểu xong mới
nghe qua htì có` vẽ vô lý nhưng người Trung Hoa ngày xưa
đã có căn cứ tin tưởng điều này . Sách "Ngọc
phòng bí quyết" có đọn nói rằng sau khi tiểu xong thì
tinh khí hao hụt, các mạch đạo không thông, trong tình
trạng như vậy mà giao hợp thì đương nhien bị tổn
thương nội trạng. Nếu giao hợp thụ thai được người
mẹ sẽ bị tổn thọ
Tất cả 7 điều cấm kỵ trên thì
ngưòi xưa điều có lý do của họ, ta thấy rằng không
hữu lý vì ta nhìn dưới cặp mắt của người tân thời,
không để ý trê? khía cạnh âm dương , mạch. . . của
y lý xưa. Nhưng không phải vì vậy mà ta kinh thường
rồi cứ ngang nhiên bước vào những điều cấm kỵ.
Xét cuộc nói chuyện
tên của Hoàng Đế và Cao Dương Trụ ta nghe nhắc đến
ngủ lao, lục cực và thất thương, nhưng phần chỉ mơí
nói đến thất thương mà thôi, các thứ khjác không
thấy nhắc đến. Độc rải rác đò đây thì thấy Tố
Nữ kinh, thì thấy Tố Nữ kinh cò nhắc đến các bệnh
về bộ máy sinh dục khiến ta có nghĩ rằng nhủ lao, lục
cực là nói về bệnh sinh lý. Chẳng hạn như bệnh niếu
đạo viêm (sưng đường tiểu). Về bệnh này Đông y
có đưa ra phép chửa như sau:
- Uống thật nhiều nước
- Cử ăn các loại
sinh vật
Cách này xét ra đã
có kết quả.
Tây y nghiên cứu nơi
tật bệnh mà cho toa, ít chú trọng đến nguyên nhân xa
cho nên lắm khi bệnh hết mà hại các cơ quan khác, tiếng
y khoa gọi là phản ứng phụ, Đông y trái lại tuỳ
theo tính chất của bệnh và dsự quâ? bình mạch ,
nhiệt của bệnh nhân mà gia giảm thuốc cho nên tuỳ người
mà có thang thuốc riêng, bởi vậy dùng đông y nên
cẩm thận, không nên thấy ngưòi nọ ngưòi kia uống
thang thuốc này thang thuốc nọ hết bệnh mà cứ lấy
toa mà cứ lấy thang thuốc riêng của họ ma bổ cho mình.
Thời tiêt trong năm đối vơí Đông y cũng quan
trọng. Sách còn
nghi lại câu chuyện của Cao Dương Trụ d0áp Hoàng Đế
trong đó nàng nói mỗi mùa thì dùng những thứ thuốc
khác nhau, thuốc mùa thu khác với với thốc mùa hạ,
thuốc mùa hạ khác với thuốc mùa Đông . . .
Hết
Xin các
bạn vui lòng nhấp chuột vào các bản quảng cáo để
ủng hộ Cõi Thiên Thai! (Vietnamese
Stories)
Last Update: Nov 15, 2000
This story has been read (Since Oct 5, 2000):
Counter |